HÙNG HOÀNG 雄 黃

HÙNG HOÀNG 雄 黃

Hùng hoàng là khoáng chất ở trạng thái thiên nhiên (Asen Bisunphua thiên nhiên), thành mỏ dưới hình thức mềm hay bùn, là khoáng chất tỷ trọng khoảng chừng 3,5, chảy và bốc thành hơi ở 7000C.

HÙNG HOÀNG   雄  黃

Rea Lgar.

HÙNG HOÀNG 雄 黃
HÙNG HOÀNG 雄 黃

Xuất xứ: Bản Kinh.

Tên khác: Hoàng tinh thạch (Bản Kinh), Thạch hoàng (Đường Bản Thảo), Huân hoàng (Bản Thảo Cương Mục), Bạch lăng, Đơn sâm, Địa tinh, Dạ kim, Nam tinh, Nam sinh, Hoàng nô, Châu tước kim, Thiên đương thạch, Đế nam huyết, Hất lợi gia, Nhu hùng hoàng, Đơn sơn nguyệt hồn, Thái tuần đầu trung thạch, Kê quan thạch (Hoà Hán Dược Khảo).

Tên gọi:

1- Hùng là đực, hoàng là vàng. Hùng hoàng có màu vàng, thường thấy ở phiá núi có mặt trời mọc, có khi đỏ trong thì gọi là Hùng tinh.

2- Thư là cái, hoàng là vàng. Thư hoàng có màu vàng nhạt hơn, thường thấy ở phía núi có mặt trời lặn.

Hùng hoàng và Thư hoàng đều là những vị thuốc thường dùng có chứa Thạch tín (Asen). Trên thực tế, Hùng hoàng có khi màu đỏ sa cam, còn Thư hoàng bao giờ cũng vàng cả.

Tên khoa học: Hùng hoàng (Rea Lgar), Thư hoàng (Orpiment, Auripiment) ,Thư hoàng (Xem thêm ở phần tham khảo).

Họ khoa học:

Mô tả: Hùng hoàng là khoáng chất ở trạng thái thiên nhiên (Asen Bisunphua thiên nhiên), thành mỏ dưới hình thức mềm hay bùn, là khoáng chất tỷ trọng khoảng chừng 3,5, chảy và bốc thành hơi ở 7000C. Màu đỏ da cam, bóng sáng (gọi là Minh hùng-hoàng), dạng khối, cứng rắn, mùi hơi khét, làm vụn nát hoặc tán nhỏ có màu hồng, không tan trong nước, hòa trong Amoniac thành dung dịch không màu. Cho vào than hồng sẽ bốc lên mùi Tỏi (có Asen)  và khí Anhdrit Sunfurơ (SO2).

Địa lý: Có nhiều ở các tỉnh Hồ Nam, Cam Túc, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu (Trung Quốc), hiện nay Việt Nam vẫn phải còn đang nhập.

Thu hoạch: Hùng hoàng ở trạng thái thiên nhiên trong mỏ thì mềm, khi cần khai thác thì dùng dao tre cắt ra từng miếng, khi ra ngoài không khí sẽ cứng lại như đá.

Mô tả dược liệu: Biểu hiện màu vàng cam, có thể kết tinh không trong suốt, thương phẩm trên thương trường thường phân làm nhiều cục lớn, nhỏ không đều.

Bào chế:

1- Phương pháp bào chế xưa: Lựa thứ đỏ như  mồng Gà, màu lóng lánh, không hôi, mỗi cục nặng 3-120g, là thứ tốt, đem ngâm vào giấm thanh ít lâu rồi lấy nước rau Cải nấu với Hùng hoàng, cho tới khi nào thấy nước cạn là được (Bản Thảo Cương Mục).

2- Kinh nghiệm bào chế hiện nay: Thường tán bột bằng cách thủy phi, lấy một phần bột Hùng hoàng, một phần hột Hồ tiêu, 9 phần bôt Ngải cứu, trộn đều, cuốn lại thành từng điếu như thuốc lá, dùng trong trị hen.

Cách dùng: Dùng trong ngoại khoa thì chỉ nên để sống cho nó mạnh, không cần chế biến gì cả. Còn uống ở trong hoặc dùng làm áo thuốc hoàn thì sau khi thủy phi được bột rồi mới dùng, không bỏ vào sắc.

Tính vị: Vị cay, Tính ấm, Có độc.

Quy kinh: Vào kinh Can, Vị.

Tác dụng: Táo thấp, sát trùng, khử đàm, giải độc rắn cắn.

Chủ trị:

+ Trị ung nhọt lở loét, lở ngứa, côn trùng độc hoặc rắn độc cắn (dùng ngoài), ký sinh trùng ở ruột, sốt rét lâu ngày, động kinh.

Liều dùng: 5 ly- 1 phân (uống).

Kiêng kỵ: Âm kém, huyết hư thì không nên dùng, kiêng đồ sắt và kỵ lửa, phụ nữ có thai đều cấm uống. Không nên dùng lâu quá.

Bảo quản: Thuộc thuốc độc bảng B, nên đựng vào lọ kín. Tránh áng sáng và nóng.

Đơn thuốc kinh nghiệm:

+ Mơ quỷ đánh mà sinh bệnh, trong bụng bức rứt xót xakhao khát muốn chết, dùng bột Hùng hoàng uống với rượu 3g, ngày 3 lần là thôi (Thiên Kim Phương).

+ Tốt nhiên trúng phải ác khí, những chứng tà ma, quỷ mỵ, dùng bột Hùng hoàng thổi vào trong mũi (Tập Nghiệm Phương).

+ Trừ khử mà tà, nằm mơ ma quỷ dùng Hùng hoàng mang trên đầu, hoặc lấy mộc cục lớn bằng trái táo đeo dưới nách bên trái thì không sợ gì nữa (Trương văn Trọng phương).

+ Phụ nữ bị bệnh tà, như người phụ nữ có thể liên lạc với tà, ngồi nó i một mình, khóc một mình, buồn rầu, suy nghĩ, hoảng hốt, dùng Hùng hoàng 30g, Tùng chi 60g trộn nấu chảy rồi lấy móng Cọp mà khuấy viên như hạt đạn, đêm đến đem đốt ở trong nói rồi cho người phụ nữ ngồi vào trong đó lấy chẳn chùm lên, lò đầu ra ngoài, không quá 3 lần thì hết. Bên trên cho uống Hùng Hoàng, Nhân sâm, Phòng phong, Ngũ vị tử tán bột, các vị bằng nhau, mỗi buổi sáng uống 6g với nước giếng đầu tiên mới múc lên trong ngày, uống cho tới khi lành (Trửu Hậu Phương).

+ Phương pháp uống ‘Tiểu đơn’: dùng Hùng hoàng, Bá tử nhân, mỗi thứ 2 cân, Tùng chi (luyện qua) 10 cân, trộn lại tán bột làm viên, mỗi buổi sáng hướng về phía bắc để uống 5 viên, sau 100 ngày thì tâm hồn yên tĩnh, thể phách an khang nhẹ nhàng và như có thể gặp thấy thần tiên (Thái Thượng Biến Huyền Kinh Phương).

+ Trị các loại động kinh của trẻ con, dùng Hùng hoàng, Châu sa, các vị bằng nhau tán bột, mỗi lần uống 3g với huyết trong trái tim Heo (Trực Chỉ Phương).

+ Nóng trong xương phát sốt, dùng bột Hùng hoàng 30g, tán bột như phấn, bỏ vào 1 tô Đồng tiện, rồi lấy một viên đá màu vàng chừng 32cm, đốt nó ngày 3 lần sau khi nấu cơm, rồi đổ nước thuốc ở trên cục đá đó, đắp chiếu mỏng lên, bảo bệnh nhân cởi áo ngồi lên trên ấy, phủ kín đừng để cho bay hơi, 3-5 lần là khỏi (Ngoại Đài Bí Yếu ).

+ Bị thương hàn sinh ho, uống đủ thuốc không đỡ, dùng Hùng hoàng 6g, 1 chén Rượu sắc còn 7 phân thừa lúc còn đang nóng hít hơi ấy vào mũi (Hoạt Nhân Phương).

+ Nghi thương hàn, lở ngứa dưới hạ bộ, đau ngứa không dứt, dùng Hùng hoàng nửa lượng, đốt rồi bỏ vào trong bình xông dưới hạ bộ (Thánh Huệ Phương).

+ Bệnh thiên đầu phong, dùng Hùng hoàng, Tế tân các vị bằng nhau tán bột, mỗi lần 3g, thổi vào mũi, đau bên trái thì thổi vào bên phải (Chí Linh Tán – Bác Tế Phương).

+ Bệnh ‘Ngũ thi chú’, khi phát bệnh thì chuyển biến không thường, có khi cả ngày, nó kết chặt ở tạng phủ, xông lên tim sườn, bởi thi quỷ ở trong người tiếp dẫn vào làm hại, dùng Hùng hoàng, Đại toán, mỗi thứ 30g, tán làm viên bằng hạt đạn lớn, lần uống 3g với Rượu nóng (Trửu Hậu Phương).

+ Âm hộ, sưng tấy như cái chén, đau không chiu nổi, dùng Hùng hoàng, Phàn thạch, mỗi thứ 60g, Cam thảo 4cm, 5 thăng nước sắc còn 2 thăng ngâm rửa (Trửu Hậu Phương).

+ Vết thương do dao mác chém, nước cứ rỉ ra mãi. dùng Hùng hoàng lớn bằng hạt đậu vừa, nhét vào bên trong uống 1 chén nhỏ Đồng tiện thì đỡ (Trửu Hậu Phương).

+ Bị đầy ứ ách, dùng Hùng hoàng 30g, Bạch phàn 30g tán bột, hồ với Miến phết trên giấy dán lên nơi đầy tức, chưa đỡ, dán tiếp (Tập Huyền Phương).

+ Huyền tịch ở dưới sườn, khó ăn uống dùng Hùng hoàng 30g, Ba đậu 15g cùng nghiền bột, bỏ vào 60g Miến trộn nước làm viên bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 24 viên, với nước tương sắc lấy nước uống, cho tới khi thông lợi được là thôi (Chữ Hoàng Hoàn – Bảo Mệnh Tập Phương).

+ Uống Rượu quá thành báng tích, uống Rượu quá độ, chóng mặt, lợm mửa, Rượu đình tích ở giữa Vị, uống quá thì nôn, lâu ngày thành báng tích: dùng Hùng hoàng (bằng 6 quả Bồ kết lớn), Ba đậu để nguyên vỏ và dầu 15 hạt, Toàn yết 15 con, tất cả tán bột, bỏ vào 150g rưỡi Miến trắng trộn nước làm viên bằng hạt đậu lớn sao với cám cho thơm, đem một hạt bỏ vào trong nước để thí nghiệm nếu nổi lên thì đạt, cất dùng, mỗi lần uống 2 viên với rượu nóng (Tửu Trưng Hoàn – Hòa Tễ Cục Phương).

+ Trưng hà tích tụ, khử ‘tam thi’, ích khí, sống lâu, trẻ trung, dùng Hùng hoàng 60g, tán bột, thủy phi 9 lần, bỏ vào ống tre mới, lấy bánh chưng nhét bít lỗ ống, xong chừng 7 lần, dùng Phấn chi tốt 30g làm viên bằng hạt đậu xanh, mỗi lần uống 7 viên với rượu, ngày 3 lần (Thiên Kim Phương).

+ Đau đầy bụng dưới, không tiểu tiện được, dùng Bột hùng hoàng viên với mật Ong, nhét vào âm hộ (Thương Hàn Loại Yếu).

+ Ngộ độc do ăn uống, dùng Hùng hoàng, Thanh đại, hai vị bằng tán bột lần uống 6g với nước (Đặng Bút Phong Tạp Hứng Ký).

+ Trị trúng độc, cổ độc, dùng Hùng hoàng, Sinh phàn, 2 thứ bằng nhau, ngày Đoan ngọ nghiền trộn với sáp lỏng làm viên bằng hạt Ngô đồng lớn, mỗi lần uống 7 viên (Tô Đông Pha phương).

+ Đại tiện ra máu, dùng Hùng hoàng bỏ vào trong Táo, nhiều ít tùy đủ dùng, gói chặt, sắc, rồi dùng 30g chì nấu chảy nước rồi đổ vào trong thang thuốc cùng sắc từ sáng tới tối, lúc nào cũng phải sôi, xong lấy ra tán mịn trộn với Táo đâm làm viên bằng hạt Ngô đồng lớn, lần uống 30 viên với nước sắc của chì lúc đói, 3 lần là khỏi (Phổ Tế phương).

+ Trúng phong cứng lưỡi: Hùng hoàng, Kinh giới tuệ, các vị bằng nhau tán bột, uống với nước Rượu dầm đậu 6g (Chính Thiệt Tán – Vệ Sinh Bảo Giám).

+ Phá thương phong dùng Hùng hoàng, Bạch chỉ, hai vị bằng nhau tán bột, sắc với Rượu đổ vào miệng thì tỉnh (Thiệu Chân Nhân Kinh Nghiệm Phương).

+ Chó dại cắn, dùng Hùng hoàng 15g, Xạ hương 6g tán bột, uống với Rượu, ngày 2 lần (Cứu Cấp Lương Phương).

+ Các loại côn trùng vào trong lỗ tai, dùng Hùng hoàng đốt cháy hơ khói vào lỗ tai (Thập Tiện Lương Phương).

+ Trị mồ hôi ngực dính vào sinh ra lở loét do cỡi Ngựa, dùng Hùng hoàng, Bạch phàn, mỗi thứ 3g, Ô mai 3 trái, Ba đậu 1 trái, tất cả tán bột, lấy 9g trộn dầu xức vào (Kinh Nghiệm Phương).

+ Nhện cắn dùng bột Hùng hoàng xức vào (Triều Dã Thiêm, Tải Phương).

+ Sưng lở đau do đùi đánh, dùng Hùng hoàng 2 phân, Mật đà tăng 1 phân. Tán mịn trộn nước bôi vào, cực hay (Cứu Cấp Phương).

+ Trúng tên độc, dùng bột Hùng hoàng xức vào, sau đó dùng nước nóng rửa, ra được độc thì đỡ (Ngoại Đài Bí Yếu).

+ Đậu đinh trẻ con, dùng Hùng hoàng 3g, Tử thảo 9g tán bột, Yên chi trấp3g, trước tiên lấy trâm bằng bạc khêu ra rồi xức thuốc vào rất hay (Đậu Chẩn Chứng Trị).

+ Lở, sói tóc, dùng Hùng hoàng, mật heo trộn lại xức vào (Thánh Tế Tổng Lục).

+ Rụng lông mày, dùng bột Hùng hoàng 30g trộn giấm xức (Thánh Tế Tổng Lục).

+ Phong ngứa như con gì bò, dùng Hùng hoàng, Tùng chi, hai vị bằng nhau tán bột trộn mật làm viên bằng Hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 10 viên  ngày 3 lần, 100 ngày là khỏi, kỵ rượu thịt muối (Thiên Kim Phương).

+ Đinh nhọt độc dữ, dùng kim chích chung quanh và ở giữa, lấy bột Hùng hoàng bôi vào (Thiên Kim Phương).

+ Đau do phong nhiệt, dùng Hùng hoàng, Cao khương, các vị bằng nhau tán bột thổi vào mũi, đau bên trái, thổi vào phải, đau bên phải thổi vào trái (Thiên Kim Phương).

+ ‘Triền hầu phong’ : Họng sưng lớn đau tới sau gáy, tê ngứa ở họng có sợi máu chằng chịt, sốt, dùng Hùng hoàng mài với nước uống, nôn ra thì đỡ (Thiên Kim Phương).

+ Dùng Hùng hoàng, Thiềm tô mỗi thứ 5 phân tán bột, dùng Hành, mật Ong đâm làm viên bằng hạt gạo lớn, dùng kim phá đầu đinh ra rồi xức vào (Tích Đức Đường Phương).

+ Lở loét nhiều, dùng Hùng hoàng 3g rưỡi, Hạnh nhân 30 trái khử vỏ, Khinh phấn 3g tán bột. Trước tiên rửa sạch rồi lấy Mật heo đực phết lên với thuốc, 2-3 ngày sau thì bớt (Tích Đức Đường Phương).

+ Tẩu mã nha cam: dùng Hùng hoàng 1chỉ, Đồng lục 6g, tác bột dán (Trần Thị, Tiểu Nhi Phương).

+ Cam lở mũi, dùng Hùng hoàng, Đình lịch các vị bằng nhau tán bột, trộn mật heo rừng, dùng cành hoa Hòe chấm xức vào (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Chảy mủ lỗ tai, dùng Hùng hoàng, Thư hoàng, Lưu hoàng, các vị bằng nhau tán bột thổi vào (Thánh Tế Tổng Lục).

+ Chứng liêm sang lâu ngày dùng Hùng hoàng 6g, Trần bì 15g, dùng vải xanh cuộn lại đốt cháy hơ lên nơi lở, làm cho nước mủ chảy ra nhiều lần (Đặng Bút Phong Tạp Hứng Ký).

+ Mũi đỏ, dùng Hùng hoàng, Lưu hoàng, mỗi thứ 15g, Thủy phấn 6g, trộn sữa con so xức vào (Nhiếp Sinh Diệu Dụng).

+ Trị tất cả các loại ngứa ngoan cố: Hùng hoàng 6g, Thổ căn bì 12g, Ban miêu 9g, ngâm với giấm lâu năm 3 ngày, bôi nơi ngứa (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Hùng hoàng, Đại toán, mỗi thứ 9g, giã nát, đắp bên ngoài, trị viêm da do tiếp xúc (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị sói tóc, thấp chẩn, lở lòng bàn tay: Hùng hoàng 30g, Vaselin, trộn  lại xức Hùng Hoàng Cao- Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị đinh nhọt giai đọan đầu sưng tấy đỏ : Hùng hoàng 6g, Mẫu lệ (nung) 12g. Tán bột. Trộn mật Ong bôi (Hùng Hoàng Mẫu Lệ Tán – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị thấp chẩn: Hùng hoàng 6g, Hoàng bá 15g, Băng phiến 3 phân. Tán bột , nếu chảy nước ,tán bột rắc vào, nếu không chảy nước trộn dầu Mè xức vào (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị sưng họng, tắt sưng họng, nguy hiểm, trẻ con động kinh sốt, nhiều đàm dãi: Hùng hoàng, Uất kim mỗi thứ 30g, Ba đậu (bỏ vỏ ép cho hết dầu) 14 hạt. Tán bột, hồ với giấm làm viên như hạt đậu Xanh, mỗi lần 2-5 viên (trẻ con giảm phân nửa), uống với nước (Hùng Hoàng Giải Độc Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị các loại ung do ung thư (ung thư thực đạo, ung thư dạ dày): Hùng hoàng 15g, Nhân chỉ giáp (móng tay người) 9g, Toàn yết  30g, Sơn từ cô 30g, Phòng phong 30g. Kê nội kim 30g. Tất cả tán bột, luyện mật làm viên, lấy cây Bạch hoa xà thiệt thảo, sắc uống mỗi ngày 60g với 1-6g thuốc, sáng và tối (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trị các loại ung do ung thư (ung thư thực đạo, ung thư dạ dày): Hùng hoàng 30g. Toát yết  15g, Ngô công 15g, Kê nội kim 15g, Đơn sâm 15g, Mã tiền tử (sao dầu) 15g. Tán bột, luyện mật làm viên, mỗi lần uống 5 phân – 3g với Rượu đế hoặc với nước, ngày 3 lần (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Tham khảo:

. Mang Hùng hoàng vào trong túi thì không sợ rắn cắn, lỡ bị rắn cắn hoặc trúng phải rắn, lấy một chút bôi vào, hoặc đi tới nơi đất cấm có nhiều loại độc khí, nhiều loại côn trùng độc và loại ở rừng thường gặp như vắt sên…khi bị dùng 1 chút bôi vào, hoặc để đề phòng lấy Hùng hoàng, Đại táo hai vị bằng nhau, giã nát làm thành viên đeo theo người (Bản Thảo Tập Chú).

. Trên thường trường hiện nay gồm có 3 loại và chia ra làm Hùng tinh, Yêu hoàng, Thư hoàng. Thông thường người ta cho rằng: Đỏ như mồng Gà lóng lánh trong suốt không hôi gọi là ‘Hùng tinh’, có chất lượng tốt nhất. Loại màu vàng chất nhẹ hơn trong suốt, đứng sau Hùng tinh là loài ‘Yêu hoàng’. Loại màu đỏ hơn Yêu hoàng mà độ trong suốt kém hơn là ‘Hùng hoàng’. Loại có màu tương đối đen sẫm đó là ‘Thư hoàng’ phẩm chất xấu nhất (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

. Hùng hoàng vị cay tính ấm có độc, có công dụng táo thấp sát trùng, có hiệu năng trừ uế giải độc, bài ‘Hùng Châu Hoàn’ trong Thiên Kim  Phương (Chu sa, Ngô công, Tục tùy tử, Xạ hương, Hùng hoàng) trị trúng các loại cổ độc, bài ‘Tỉnh Tiêu Hoàn’ trong Cục Phương (Hùng hoàng, Nhũ hương, Một dược, Xạ hương), trị ung thư lở độc, sát trùng, nên Lý Thời Trân cho nó là yếu dược trong thuốc sát trùng trị lở  loét (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).